Năm sinh: 1921
Chánh quán: Tùng ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh
Trú quán: Hà Nội
Tác phẩm:
- Vườn xưa (thơ), Nxb Văn hoá dân tộc 1996
- Quê hương (thơ in chung), Nxb Văn hoá dân tộc 1996
- Thăng Long (thơ in chung), Nxb Văn học 1996
- Thăng Long (thơ in chung), Nxb Văn học 1997
- CLB Thăng Long 1978-1998 (thơ văn in chung) 1998
- Những áng thơ hay tập 1 (thơ dịch in chung), Nxb Văn học 1999
- Những áng thơ hay tập 2 (thơ dịch in chung), Nxb Văn học 2000
- Hương sắc bốn phương (thơ dịch in chung, Nxb Hội nhà văn 2002
- Người Bưu điện làm thơ (thơ in chung), Nxb Thanh niên 2002
- Bầu trời và Cánh sóng (thơ in chung), Nxb Lao động 2004
- Văn thơ Bưu điện (văn thơ in chung), Nxb Thanh niên 2005
- Có thơ đăng báo ở Nghệ An và Hà Nội
- Được giải thưởng thi thơ quận Đống Đa 1996.
THĂM HUẾ
Ta lại vào thăm Huế cố đô
Huế ơi! xa Huế tự bao giờ?
Hai nhăm năm lẻ bao hoài niệm
Huế vẫn màu xanh, Huế vẫn thơ.
Nguyệt cầm buông nhẹ mấy đường tơ,
Thập lục ngân nga luống đợi chờ,
Thánh thót đàn bầu rung thấm đượm,
Điệu hò trong sáng tưởng như mơ.
Giọng nói sao nghe quá ngọt ngào,
Dịu dàng đằm thắm nét thanh tao,
Trầm tư duyên dáng màu quê Huế,
Giữ vẻ hồn nhiên tự thuở nào!
Đầy thuyền trăng toả sáng sông Hương,
Khoái cảm lâng lâng khác lạ thương,
Xao xuyến "Mái nhì" vang lắng đọng,
Chia tay mà dạ vẫn còn vương...
Kỷ niệm chuyến thăm Huế
TIẾNG MA NÍP
Kỷ niệm bảo đảm thông tin liên lạc
những năm kháng chiến chống Mỹ.
Anh người tỉnh lẻ
em ở Thủ đô.
Tuy không hẹn
đều làm nghề báo vụ.
Cùng lo lắng
ngày đêm làm phận sự.
Nhớ rõ ngày
năm tháng mới gặp em,
Tiếng tịch tà
nghe đầu lạ sau quen,
Khi em đáp
cũng như lần em gọi,
Anh hồi hộp
luôn sẵn sàng chờ đợi
Nhận lệnh truyền
chỉ đạo của Trung ương,
Nhận bao dòng
đầy tình cảm thân thương.
Thu hẹp khoảng trời
bao la thăm thẳm.
Rút ngắn lại
con đường dài vạn dặm
Để mọi người
thân xích lại gần nhau.
Để nghĩa tình
luôn trọn vẹn trước sau.
Anh và em
nghe tên chưa biết mặt,
Anh mong ước
có một lần được gặp.
Một sáng hè
trên đường phố thủ đô,
Nắm bàn tay
người anh tưởng trong mơ,
Tiếng ma níp
nhịp nhàng sâu lắng ấy...
HƯƠNG XUÂN
Xuân về, thêm tuổi càng yêu
Vần thơ trong sáng sớm chiều bên ta.
Thơ làm trẻ lại tuổi già,
Tình thơ năm tháng đậm đà lắng sâu.
Thơ làm tóc chậm bạc màu,
Hương xuân phảng phất thêm giàu tứ thơ.
Đào hồng nở rộ đang chờ
Ngày xuân rộn đón nàng thơ đến nhà.
Rằng đây tình nghĩa mặn mà,
Rằng đây âm điệu mượt mà quen thân.
Thơ niềm rung cảm vô ngàn,
Tâm hồn luôn giữ được phần thanh cao.
Nàng thơ ơi! Thật tự hào,
Bên nàng ta thấy lúc nào cũng xuân.
Le parfum du printemps
Plus âgé au nouveau printemps j'aime davantage
Des vers purs et clairs matin et soir, à chaque instant.
La poésie rajeunit le vieil âge,
Son amour chaleureux et profond s'accroit des années durant.
Elle retarde la décoloration des cheveux en bonne entente
Avec ses aspects enrichis par le léger parfum du printemps.
Les fleurs roses des pêchers sont unanimement épanouies dans l'attente
De la muse chaleureusement accueillie à temps.
Ici la chaleur de l'amour et de la loyauté transparait sans cesse.
Ici c'est la douce et chère mélodie,
C'est l'âme gardant toujours sa noblesse
Au frémissement infini de la poésic.
Muse ! près de toi je suis fier et content
De voir le printemps souriant à tout moment.
Hanội Printemps de ất Dậu 2005
Phan Thế Triết
Club des traducteurs de poèmes
Association des écrivains de Hànoi
Perfume of spring
Older in new spring I love more
The pure and clear verses in the morning and afternoon.
Poetry rejuvenates old age,
Its warm and profound love increases with the time,
It retards the hair's discoloration
With its aspects enriched by spring's light perfume.
The rose peach blossoms unanimously blooming wait for
The muse joyfully received at home on spring days.
Here are deep affection and fervid loyalty,
Here is sweet and dear melody.
Our soul always preserves its nobleness
By poetry's infinite vibration.
Beloved muse! by your side I'm very proud of
Spring sweetly smiling all the time.
Hanoi Êt Dậu, Spring 2005
Club of poems's translators
Association of writers Hanoi city
ĐÊM CHIA TAY
Theo nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc
Mãi mãi tuổi hai mươi
"Đêm chia tay là đêm gần nhau nhất,
Hạnh phúc tung những đốm sáng lên trời
Lửng lơ bay xao xuyến lắm em ơi!
Anh cứ trượt theo đường cong mềm mại,
Đã qua rồi vẫn còn rung động mãi.
Lúc xa nhau khó nói được nên lời,
Làn gió thơm đồng nội lướt trên môi,
Cùng nhè nhẹ vuốt ve hai mái tóc.
Nỗi lo sợ đến trong anh phút chốc,
Ngại không còn được gặp lại nhau thôi.
Bây giờ đây đã hai ngả xa xôi,
Em du học anh trên đường ra trận,
Có lẽ nào thế này là duyên phận?
Có lẽ nào vĩnh viễn phải xa nhau?
Hai chúng mình không trọn vẹn trước sau,
Đêm chia tay là tột cùng hạnh phúc?"
*
* *
Nguyễn Văn Thạc hy sinh vì Tổ quốc
Để vang lên "Mãi mãi tuổi hai mươi".
Vers libres aux rimes croisées
Nuit de séparation
D'après le journal de Nguyen Van Thac héros mort pour la patrie
Eternel âge de vingt ans
"La nuit de séparation a été celle de la plus belle approche.
Le bonheur a lancé au ciel des points lumineux s'envolant indécis et attendris.
Je me suis glissé suivant les courbes molles et proches
Dont le frémissement n'est pas encore fini.
Dans la séparation les mots n'arrivent pas aisément.
Le vent parfumé des champs aux lèvres nous effleurant,
A caressé notre cheveulure légèrement.
La peur m'est venue à cet instant:
Que sans espoir de notre future rencontre, je m'en aille
à présent dans le lointain et ton bon chemin,
Tu poursuivras tes études à l'e'tranger, je serai dans la bataille
Est ce ainsi notre savoureux destin?
Est ce que nous ne pourrons plus nous revoir éternellement?
Au comble du bonheur, la nuit de séparation fut elle?"
*
* *
Pour la patrie Nguyen Van Thac s'est sacrifié héroiquement.
La ferveur de l'âge de vingt ans sera éternelle.
Hanoi, 2005
MẸ TÌM CON
Qua nửa vòng trái đất đến đây. (1)
ảnh con đó bao năm chờ đợi.
Chiếc nón lá, nụ cười con gái,
Làm sáng bừng gương mặt thân thương,
Đã hiên ngang đứng giữa chiến trường,
Luôn tràn ngập mưa bom bão đạn.
Bà mẹ từng khát khao vô hạn,
Nay nâng niu nhật ký Thuỳ Trâm,
Vội ắp iu trên ngực thì thầm:
"Con yêu quý! Hãy về bên mẹ".
Quá xúc động bà ve vuốt nhẹ,
Tưởng con yêu đang đứng trước mình.
Mẹ khóc oà: con đã hi sinh!
Đời ghi nhớ gương trong liệt sĩ,
Đang toả sáng những trang nhật ký.
Triệu triệu người thương nhớ Thuỳ Trâm...
. Bà Doãn Ngọc Trâm mẹ của liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã có chuyến đi đến Trung tâm Việt Nam Texas (Hoa Kỳ) nơi đang giữ kỷ vật của liệt sĩ.
Vers libres aux rimes plates
Une mère a trouvé sa fille
Après un demi tour du globe terrestre, ici elle est venue(1),
Regardant la photo de la fille tant d'années attendue.
Le chapeau conique en feuilles de latanier et le sourire de celleci,
Font resplendir son visage chéri,
Sa fierté dans le champ de bataille,
Dans la pluie de bombes, la tempête de balles sans qu'elle s'en aille.
La mère dans la soif ardente sans relâche,
Dorlote le journal de Thuỳ Trâm à la hâte,
Le serre tendrement sur la poitrine en chuchotant:
"Fille bien aiméc! Viens auprès de moi à l' instant".
Profondément émue, légèrement elle la caresse,
Imaginant que celle ci est devant elle sans cesse.
Elle pleure en sanglots: sa fille n'est plus vivante!
Le monde grave ce noble modèle de la feu héroùne combattante,
Ces pages de mémorandum resplendissantes.
Des millions de citoyens pensent affectueusement à
Thuỳ Trâm bien vaillante...
Hà Nội 11/2005
Phan Thế Triết